Phong Trào Thơ Mới Là Gì

Phong Trào Thơ Mới Là Gì

Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, là người khởi xướng nên trường thơ loạn, “tiên phong” trong phong trào thơ lãng mạn hiện đại. Cuộc đời Hàn Mặc Tử bi thương, bạc mệnh. Cho đến bây giờ, các tác phẩm của ông vẫn còn nguyên giá trị, luôn là những “tinh tú” trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Để hiểu rõ về cuộc đời, phong cách sáng tác, quý bạn đọc đừng bỏ qua bài viết dưới đây của loiphong.vn

Hàn Mặc Tử là nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam, là người khởi xướng nên trường thơ loạn, “tiên phong” trong phong trào thơ lãng mạn hiện đại. Cuộc đời Hàn Mặc Tử bi thương, bạc mệnh. Cho đến bây giờ, các tác phẩm của ông vẫn còn nguyên giá trị, luôn là những “tinh tú” trên bầu trời thơ ca Việt Nam. Để hiểu rõ về cuộc đời, phong cách sáng tác, quý bạn đọc đừng bỏ qua bài viết dưới đây của loiphong.vn

Đây thôn Vĩ Dạ - Bài thơ tiêu biểu nhất của Hàn Mặc Tử

Đây thôn Vĩ Dạ - Bài thơ tiêu biểu nhất của Hàn Mặc Tử

Đây thôn Vĩ Dạ là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Hàn Mặc Tử được trích trong tập Thơ điên. Bài thơ đã được đưa vào chương trình giảng dạy môn Ngữ Văn 11, xuất hiện rất nhiều trong bài kiểm tra cuối kỳ và tốt nghiệp THPT.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” được sáng tác trong hoàn cảnh khó khăn nhất của Hàn Mặc Tử, ông đang phải chịu đựng những cơn đau giằng xé của bệnh phong cùi. Thế nhưng, khi đọc bài thơ, người đọc như hòa vào một thế giới khác, nơi ấy không phải là lời kêu than của người đang bệnh nặng mà là tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu thương con người.

Bức tranh phong cảnh Dạ Vĩ bên dòng sông Hương êm đềm được khắc họa trong trí tưởng tượng của người ở nơi xa đang hướng về xứ Huế với bao yêu thương, khát vọng. Bài thơ không chỉ là bức tranh phong cảnh mà cũng chính là tâm cảnh, thể hiện nỗi buồn của nhà thơ trong mối tình xa xăm, vô vọng.

Bút pháp của bài thơ có sự hòa điệu của tả thực, tượng trưng, trữ tình, lãng mạn. Cảnh xứ Huế đậm mét nhưng lại có tầm cao tượng trưng. Sự mơ mộng làm tăng thêm sắc thái biểu cảm và nét chân thực của cảm xúc tăng thêm chất trữ tình.

Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những bài thơ tình hay nhất của Hàn Mặc Tử. Một tình yêu tha thiết, man mát, đượm vẻ u buồn được thể hiện giữa khung cảnh thiên nhiên hòa vào lòng người; giữa cái thực và cái mộng, huyền ảo và cụ thể. Ở bài thơ, cái tình mặn nồng trong sáng tác đã hòa quyện với thiên nhiên tươi đẹp, mối tình riêng đã ở trong mối tình chung, hồn thơ đượm vẻ đau buồn.

Các tác phẩm của nhà thơ Hàn Mặc Tử

Đọc thơ của Hàn Mặc Tử ta sẽ bắt gặp một tâm hồn yêu cuộc sống, yêu con người da diết; một khát vọng sống mãnh liệt đến đau đớn tột cùng. Hàn Mặc Tử là một người nghệ sĩ đa tài nhưng cuộc đời ngắn ngủi. Dù ra đi ở tuổi đời rất trẻ nhưng sự nghiệp thơ ca của ông rất đồ sộ. Các tác phẩm tiêu biểu đó là:

● Tuyển tập Gái quê (1936) bao gồm: Mơ, Gái quê, Tình quê, Nhớ Nhung, Hái dâu, Âm thầm, Lòng quê, Nắng tươi, Đời phiêu lãng,…

● Tuyển tập Thơ điên (1938) bao gồm: Hương thơm, Mật đắng, Xuân như ý, Máu cuồng và hồn điên,…

● Khác: Biết anh, Em đau, Nhớ mây, Một cõi quên, Hồn lìa khỏi xác, Xuân như ý, Duyên kỳ ngộ, Quần tiên hội,…

Phong cách sáng tác của Hàn Mặc Tử

Là một trong những nhà thơ tiên phong trong phong trào Thơ mới, thế giới văn chương của Hàn Mặc Tử luôn phong phú, đầy màu sắc, mang đậm phong cách cá nhân. Ông đã đưa vào thơ mới sự sáng tạo, hình ảnh ấn tượng. Thế giới nội tâm đa dạng của Hàn Mặc Tử đã mang đến cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm “để đời”. Bên cạnh sử dụng bút pháp lãng mạn, ông còn sử dụng bút pháp tượng trưng, bút pháp siêu thực.

Từ những ngày đầu chập chững bước vào con đường sáng tác, thơ của Hàn Mặc Tử đã mang màu sắc táo bạo, phá cách, gây được tiếng vang lớn với giới yêu thơ. Lối thơ nửa kín, nửa mở, trần tục đã khiến cho khán giả phải suy ngẫm rất nhiều. Ông dùng con chữ một cách trừu tượng làm nên đòi bẩy để gợi lên những cảm xúc riêng tư của người đọc.

“Bóng nguyệt leo song rờ rẫm gối

Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”...

“Trăng nằm sõng soài trên cành liễu

Hoa lá ngây tình không muốn động

Những năm cuối đời, Hàn Mặc Tử sống trong sự lạnh lẽo, cô đơn cùng sự đau đớn của bệnh “phong cùi”. Đôi bàn tay co quắt, khô cằn cũng không cản bước ông sáng tác thơ ca, cống hiến cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Có lẽ, chính những đau khổ của cuộc đời, niềm khát khao cuộc sống mà những sáng tác của ông trong giai đoạn này càng thêm sâu sắc, lạ lẫm, độc đáo nhưng cũng đau đớn và có phần điên loạn.

Hàn Mặc Tử là ai? Hàn Mặc Tử quê ở đâu?

Hàn Mặc Tử là ai? Hàn Mặc Tử quê ở đâu?

Hàn Mặc Tử hay Hàn Mạc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ngày 22/9/1912 tại làng Lệ Mỹ bên dòng Nhật Lệ, nay thuộc thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình. Lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo đạo Công giáo. Tổ tiên của ông là họ Phạm nhưng do liên quan đến quốc sự bị truy nã nên đổi thành họ nguyễn. Hàn Mặc Tử có duyên với 4 chữ Bình đó là sinh tại Quảng Bình, làm báo Tân Bình, có người yêu ở Bình Thuận và mất ở Bình Định.

Hàn Mặc Tử là một nhà thơ nổi tiếng, đặt nền móng cho dòng thơ lãng mạn hiện đại Việt Nam và là người khởi xướng nên Trường thơ loạn. Ngòi bút thơ của ông được biết đến với một giọng thơ trữ tình, đằm thắm; thể hiện tình yêu cuộc sống tha thiết, khát khao tình người đến cháy bỏng.

Sinh thời, nhà thơ Chế Lan Viên từng nhận định: “Trước không có ai, sau không có ai, Hàn Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực rỡ của mình”. Hàn Mặc Tử được xếp hạng nổi tiếng thứ 4017 trên thế giới. Ngoài bút danh là Hàn Mặc Tử, ông còn có nhiều bút danh khác như Lệ Thanh, Phong Trần.

Đồi Thi Nhân - Nơi yên nghỉ của thi sĩ Hàn Mặc Tử

Đồi Thi Nhân - Nơi yên nghỉ của thi sĩ Hàn Mặc Tử

Theo các tài liệu ghi chép lại, trước khi mất, Hàn Mặc Tử có một di nguyện là khi qua đời sẽ được chôn trên đèo Son (nằm ở đầu thành phố Quy Nhơn). Năm 1940, Hàn Mặc Tử mất và an táng tại Quy Hòa. Đến năm 1959, bạn bè và người thân đã cải táng, di dời phần mộ của ông về Ghềnh Ráng ngày nay.

Mộ thi sĩ Hàn Mặc Tử tọa lạc trên ngọn đồi Thi Nhân ở Quy Nhơn. Để đến được địa điểm này, bạn có thể xuất phát từ trung tâm công viên thành phố - nơi có bức tượng Hoàng Đế Quang Trung, di chuyển theo hướng Tây Nam phía bờ biển chừng 3km là đến xóm biển Ghềnh Ráng. Đi qua con đường vào xóm chài Ghềnh Ráng bạn sẽ tới khu chợ nhỏ của người dân địa phương, khu này có một cây cầu bắc ngang qua quán thủy tạ Mai Đình. Từ đây, con đường dẫn tới nơi an nghỉ của thi sĩ Hàn Mặc Tử sẽ là một cây cầu bắc qua suối Tiên. Sang bên kia cầu bạn đi theo hướng tay trái để lên đồi Thi Nhân.

Con đường nhỏ lên xuống được làm thành những bậc tam cấp bằng đá, hai bên là những hàng cây xanh tỉa thành hàng. Nằm ẩn mình dưới những tán cây xanh là một con đường thơ mộng mang tên dốc Mộng Cầm.

Để ghi nhớ những đóng góp của Hàn Mặc Tử, tại nhiều thành phố trên khắp cả nước đã dùng tên của ông để đặt cho tên đường. Năm 2004, hãng phim truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện bộ phim Hàn Mặc Tử để tưởng nhớ ông. Nhiều tác phẩm của ông được phổ thành nhạc và được mọi người yêu thích.

Thi sĩ Hàn Mặc Tử, tên thật Nguyễn Trọng Trí (22/9/1912 - 11/11/1940), còn có các bút danh Lệ Thanh, Thanh Hư, Phong Trần, Trật Sên; sinh ở làng Mỹ Lệ (Đồng Hới, Quảng Bình), quê gốc ở Thanh Hóa, theo đạo Công giáo.

Nghiệm sinh 28 năm trên cõi đời, Hàn Mặc Tử đã kịp trải khắp các vùng đất Quảng Bình, Thừa Thiên - Huế, Quy Nhơn - Bình Định, Quảng Ngãi, Phan Thiết, Sài Gòn; đã tham gia “Bàn Thành tứ hữu”, khởi xướng Trường thơ Loạn, cộng tác rộng với các báo Phụ nữ tân văn, Thực nghiệp dân báo, Tiếng dân, Sài Gòn, Công luận, Trong khuê phòng, Tràng An, Tiến bộ, Tân tiến, Tiểu thuyết thứ Năm, Đông Dương tuần báo, Người mới và có bài thơ xướng họa Chuyến đò ngang in trong tập Một tấm lòng (1939) của Quách Tấn.

Khi còn tại thế, Hàn Mặc Tử mới chỉ in có một tập Gái quê (1936). Sau khi Hàn Mặc Tử qua đời, kịp ngay đương thời Thơ mới, thi sĩ còn được bạn bè chọn in hai tập: Thơ Hàn Mặc Tử (Quách Tấn và Chế Lan Viên sưu tập - NXB Đông Phương, Sài Gòn, 1942), Chơi giữa mùa trăng (Thơ - văn xuôi, NXB Ngày nay 1944) và một số thơ khác được Trần Thanh Mại dẫn lại trong tập truyện ký Hàn Mặc Tử (Võ Doãn Mại xuất bản, Huế, 1942)…

Hàn Mặc Tử cũng từng phát biểu quan niệm thơ và bình luận về thơ của Chế Lan Viên, Bích Khê, Quách Tấn và văn Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Hoan; viết bài trao đổi về nghệ thuật thi ca cùng Lam Giang, Trọng Miên; lại có bài giới thiệu “Karl Marx thi sĩ”, viết phóng sự, truyện ngắn trinh thám, khảo cứu lịch sử, văn hóa, văn học Pháp, Nhật Bản, Mỹ, Ai Cập, Ireland, Trung Quốc, Thái Lan…

Một năm sau khi ra mắt tập Gái quê, Hàn Mặc Tử hân hoan chào đón người bạn thơ Chế Lan Viên kém mình đến tám tuổi, khi mà tập thơ Điêu tàn của Chế còn đang ở dạng bản thảo và mới công bố một số bài trên báo.

Mở đầu bài viết Những văn tài mới nở: Chế Lan Viên - thi sĩ của vương quốc Chiêm Thành (Tràng An, số ra ngày 6/7/1937), Hàn Mặc Tử khơi mở giác quan và nhập thân vào thế giới thơ Chế: “Tôi đã đốt đỉnh trầm đặt trên án… trong thanh khí của nguồn mơ hoa…, vì tối hôm nay tôi chuốc lại ngòi bút, mượn hương thơm đưa đẩy lời văn… để giới thiệu một nhà thơ mới.

Tôi đã lấy hết tinh lực của hồn, của máu, hấp lại thành một sức mạnh. Nhưng chưa đủ. Tôi đến phải thành tâm, lạy các vì tinh tú, cầu nguyện với những linh hồn thơ, từ muôn năm trước về giúp cho ngòi bút tôi thêm thành thực, lột được chút ít tinh thần văn thơ của ông Chế Lan Viên”...

Sau khi dẫn giải bối cảnh lịch sử và hệ thống chủ đề trong thơ Chế, Hàn Mặc Tử đi sâu phân tích, bình giảng từng biểu tượng, từng hình ảnh, từng nỗi ám ảnh đã đi đến đoạn kết: “Chế Lan Viên! Anh hãy cười đi! Say sưa đi! Điên tiết lên đi vì sau khi đọc xong quyển Điêu tàn của anh thì bao nhiêu cái buồn, cái chán, cái rùng rợn, cái hãi hùng đã làm cho tôi khóc, tôi cười, tôi vui, tôi khổ! Anh ở đâu? Trong bãi tha ma hay trên Nguyệt điện? Ngoài chiến trường đầy xương phơi máu đổ hay bên đống gạch nát của ngôi tháp cổ ở đất Chàm? Anh mau mượn gió, nương mây về! Về cùng tôi vỗ tay reo vang để cùng cười, cùng khóc, cùng hoan hô: - Ha ha! Chúng ta đây là hai thi sĩ điên rồ đây”…

Trong bài tự tựa tập Thơ điên: Đau thương (1938), khi đó mới là dự kiến sẽ xuất bản nay mai, Hàn Mặc Tử đặt câu hỏi rồi lại tự trả lời về bản chất nghệ thuật sáng tạo thi ca: “Ai nói vườn trăng là nói vườn mơ. Ai nói bến mộng là nói bến tình. Người thơ là khách lạ đi giữa Nguồn Trong trẻo (…). Tôi làm thơ? - Nghĩa là tôi nhấn một cung đàn, bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”...

Là người nhiệt tình ủng hộ Thơ mới, cũng với bút danh Phong Trần, Hàn Mặc Tử đã bàn giải cùng ông Lam Giang Tử ở báo Tân tiến (Sài Gòn, tháng 7/1938) bằng tiếng nói phản bác mạnh mẽ, quyết đoán, giàu hình ảnh với bài Không nên có luật thơ mới in trên báo Tiến bộ (số ra ngày 6/8/1938): “Đánh đổ kẻ làm loạn trong làng thơ... Thơ cũ là một cô gái xưa chít khăn mỏ quạ, mang chiếc nón nan, một cô gái không phấn son, nền nếp trâm anh, tuy yêu kiều mà ngượng nghịu, tuy trang nghiêm mà nặng nề; trái lại thơ mới là một thiếu nữ tân thời, phấn son tô, y quan sặc sỡ, nhanh nhẹn như con chim buổi sáng đầu xuân, vừa mơ màng, vừa kiều diễm (...).

Cái sự huyền diệu của thơ không nên để nó nằm trong phạm vi viết mực, mà phải cho nó làm chủ tất cả giấy, bút, nghiên, bình. Thơ đã là như thế... thì còn bắt nạt nó, kéo phạt nó, bảo phải ngồi trong căn phòng luật lệ nữa mà chi?”…

Rồi tiếp đến bài tự tựa tập Xuân như ý (1938), khi đó cũng chỉ mới nằm trong dự kiến sẽ xuất bản, Hàn Mặc Tử trong tâm trạng “Sau Thiên Chúa giáng sinh năm 1939. Viết lại Quy Nhơn trong một ngày rất say, rất dại và rất nhớ, rất thương” đã thăng hoa bộc lộ một cái tôi cá nhân nghệ sĩ và thi sĩ đầy cá tính: “Loài người hãy tận hưởng một hơi cho đã ngán và cao rao danh Cha cả sáng. Và loài người hãy cảm ơn Thi nhân đã đổ ra biết bao nhiêu nguồn máu lệ, đã từng uống mật đắng cay trong khi miệng vẫn tươi cười sốt sắng”...

Rồi Hàn Mặc Tử viết Tựa cho tập thơ Tinh huyết của Bích Khê (Trọng Miên xuất bản, Hà Nội, 1939) với nhan đề Bích Khê, thi sĩ thần linh, ngay trước đó đã in báo Trong khuê phòng (số ra ngày 10/6/1939).

Hàn Mặc Tử trân trọng, đam mê và nồng nhiệt giới thiệu thơ của người bạn thơ kém mình bốn tuổi: “Một tập thơ, viết bằng máu huyết tinh túy và châu lệ, và tất cả say sưa, đắm đuối của một hồn thi sĩ... Một bông hoa lạ nở hương, một thứ hương quý trọng, thơm đủ mọi mùi phước lộc.

Ta có thể sánh văn thơ của Bích Khê như đóa hoa thần dị ấy. Và đem ra phân chất, ta sẽ thấy thơ chàng gồm có ba tính cách khác nhau: 1) Thơ tượng trưng; 2) Thơ huyền diệu; 3) Thơ trụy lạc”...

Ngay tại Quy Nhơn, nhằm đúng ngày mồng Chín tháng Năm năm Kỷ Mão (25/6/1939), Hàn Mặc Tử (nguyên văn ký Hàn Mạc Tử - NHS chú) đã viết bài Bạt cho tập thơ Một tấm lòng của Quách Tấn (Tác giả xuất bản, Hà Nội, 1939), trong đó đã nâng niu lọc lựa và mỹ hóa thơ của người bạn thơ hơn mình hai tuổi, mượn thơ bạn làm cái cớ bộc lộ cảm xúc, cảm nhận chủ quan riêng tư:

“Đêm qua ta say trăng, nằm lăn trên bãi cát, cạnh túp lều tranh. Hào quang chói ngời vây bọc mình ta khiến hồn ta mát rợn lên. Trí ta dại khờ, mắt ta no ánh sáng, không đọc nổi những tờ thơ của tập MỘT TẤM LÒNG mà ta đang cầm trên tay. Ôi chao! cứ mỗi tờ thơ là mỗi tờ trăng, thơm mát, dịu dàng, cơ hồ có từng bản nhạc reo lên ở mỗi trang giấy. Bắt chước người xưa tìm người đẹp trong sách, ta đã hoài công dưới bóng trăng đêm nay”...

Cũng tại Quy Nhơn vào tháng 6/1939, Hàn Mặc Tử có bài viết Quan niệm thơ gửi bạn Trọng Miên. Có thể coi đây là bài trả lời phỏng vấn, có ý nghĩa đúc kết, nâng cao và tinh lọc những suy cảm, chiêm nghiệm của Hàn Mặc Tử từ mọi nguồn thơ cổ - kim, Đông - Tây: “Miên có hỏi Trí về quan niệm thơ. Đối với Trí, quan niệm rất khác thường, không giống Baudelaire lắm.

Theo Baudelaire thì va lấy passion làm hứng vị cho thơ. Trước kia nếu Miên lấy tập Thơ điên của Trí ra, Miên sẽ thấy nhiều bài thấm thía những tình cảm rất nóng và rất say sưa... Trí đã phát tiết hết tinh lực của hồn, của máu, bằng những câu thơ ngất đi vì khoái lạc.

Chỗ ấy hơi đồng một quan niệm với Baudelaire. Trí nói hơi đồng thôi, vì trong khi làm thơ, Trí đã tận hưởng những phong vị của nhạc, của hoa, của trăng, của gái một cách vô tội. Chứ đối với Baudelaire, va đã nói “la passion est chose naturelle”... nghĩa là va đã hiểu lầm chữ passion rồi vậy”...

Có thể khẳng định chính quan niệm về thơ và những trang đọc thơ, điểm thơ, luận bình thơ ca của Hàn lại cũng hết sức tinh tế, độc đáo, đầy cá tính và mọi suy tưởng đều được đẩy đến tận cùng gam độ.

Thi sĩ tạo nên một thế giới nghệ thuật riêng tư với những tâm trạng, cảm xúc, hình ảnh con người, không gian và thời gian khác lạ, hư ảo, ma quái. Trong tâm tưởng sâu xa, Hàn Mặc Tử đồng cảm với một Trường thơ Loạn, tiếp nhận và tập trung khai thác cái hay cái đẹp của thơ theo quan niệm của cá nhân mình.

Hàn Mặc Tử không buông lụy, xu thời, không chạy theo một ngọn triều nào ngoài thơ. Thi sĩ không dư thừa thời gian, người chỉ vừa kịp tỏa sáng và góp với cõi thơ những suy tư kỳ bí không thể lẫn cùng ai…

Vần thơ vẫn sắc lẹm ngay cả khi đau khổ nhất

Đến nay, chúng tôi chưa sưu tập được bài tựa của Phạm Văn Ký trong tập Gái quê của Hàn Mặc Tử nhưng ở mục Điểm sách báo trên Sông Hương (Huế, số 15, ra ngày 7/11/1936) có giới thiệu chi tiết: “Gái quê - Một tập thơ dày gần 50 trang của Hàn Mặc Tử soạn, in đẹp, giá 0$35, có Phạm Văn Ký đề tựa.

Chúng tôi đọc qua thấy như trong tập thơ nầy có nhiều bài được lắm. Đợi xem xong sẽ có bài phê bình. Trong bài của ông Phạm Văn Ký có câu rằng: “Với tập Gái quê, ông Hàn Mặc Tử sẽ chiếm một chỗ ngồi rất vững trong làng thơ, và tôi chắc, tương lai còn hứa cho ông nhiều cái rực rỡ nữa”.

Lời kỳ vọng ấy đã ra từ miệng ông Phạm Văn Ký, tưởng bạn đọc cũng có thể tin được, vì người nói ra nó đã từng có tiếng trên thi đàn Pháp và Nam”…

Một trường hợp điển hình, đến cuối bài phác thảo chân dung lấy tên tác giả làm nhan đề Hàn Mặc Tử cũng in trên Tiểu thuyết thứ Năm, nhà thơ Quỳnh Dao có thêm dòng cảm xúc: Viết ở Hải Phòng, một đêm nao nao nhớ, và bài viết này có thêm phần lời dẫn của L. T. K (Lê Tràng Kiều) đã toát yếu được những nội dung cơ bản: “Hàn Mặc Tử là tác giả tập Gái quê xuất bản từ hồi Octobre 1936.

Một tập thơ phần nhiều tả những cảnh sắc nhà quê, cây tre, khóm lau, bờ cỏ, hay những phút yêu mong, nhớ của những cô gái quê. Hồi tập thơ này xuất bản là hồi chúng tôi đang còn chủ trương tờ Hà Nội báo. Nhận được tập thơ ông, chúng tôi đã vui mừng giới thiệu ông - một thi sĩ mới - với độc giả, và nói rõ tính cách của tập thơ ông, nó có cái phong vị mộc mạc, ngây thơ và thi vị.

Tuy cả tập Gái quê không phải là bài nào cũng hay ngang bài nào, nhưng nhiều bài đủ tỏ rằng tác giả có một tâm hồn đa cảm lắm, một tâm hồn nồng nàn của thi nhân, và vì thế Hàn Mặc Tử đã ở trên nhiều những ông thợ thơ khác. Ta phải nói hẳn ngay Hàn Mặc Tử là một thi sĩ.

Bài mà chúng tôi thích nhất trong quyển Gái quê (hồi ấy đã có trích đăng lại ở Hà Nội báo) là bài Tình quê mà bạn Quỳnh Dao cũng có trích ở đoạn đầu bài dưới đây. Tình quê có một âm điệu như Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư. Đọc lên, ta nghe như tiếng gió rạt rào trong khóm tre mỗi buổi chiều hôm, tiếng nghe văng vẳng buồn, một cái buồn nhè nhẹ.

Nhưng, đó mới chỉ là mấy vần thơ đầu. Sau này thơ của Hàn Mặc Tử còn “hứa hẹn” nhiều và đi qua từ SÁNG TẠO sang SIÊU VIỆT và gần đây lại hơn nữa là ĐIÊN lúc Hàn Mặc Tử đau buồn quá! Muốn độc giả rõ Hàn Mặc Tử hơn, tôi xin nhường lời cho thi sĩ Quỳnh Dao, người đã gặp Hàn Mặc Tử và đã sống những phút đầy đủ bên Hàn Mặc Tử” (Tiểu thuyết thứ Năm, số 30, ra ngày 11/5/1939)…

Lược qua nhiều trang viết của nhiều bình giả khắp trong Nam ngoài Bắc, tiếp đến Hoài Thanh - Hoài Chân trong công trình tổng thành Thi nhân Việt Nam (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942) đã tuyển in 7 bài thơ của Hàn Mặc Tử (đồng hạng với Thế Lữ, Nam Trân).

Trong phần giới thiệu, hai ông có thêm chú thích ý nghĩa tên tác giả: “Hai chữ “hàn mạc” trong tự điển không có, chỉ có “hàn mặc” nghĩa là văn chương” rồi lượng sức cảm nhận: “Ngót một tháng trời tôi đã đọc thơ Hàn Mạc Tử (Do Ô. Trần Thanh Địch cho mượn).

Tôi đã theo Hàn Mạc Tử từ lối thơ Đường đến vở kịch bằng thơ Quần tiên hội. Và tôi đã mệt lả. Chính như lời Hàn Mạc Tử nói trong bài tựa Thơ điên, vườn thơ của người rộng rinh không bờ bến, càng đi xa càng ớn lạnh. Bây giờ đã ra khỏi cái thế giới kỳ dị ấy và đã trở về với cuộc đời tầm thường mà ý nhị, tôi thử xếp đặt lại những cảm tưởng hỗn độn của tôi”, từ đó đi sâu phân tích, lý giải đặc điểm thế giới nghệ thuật các dòng thơ, tập thơ (Thơ Đường luật, Gái quê, Thơ điên (Hương thơm - Mật đắng - Máu cuồng và hồn điên), Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cẩm châu duyên, Duyên kỳ ngộ và Quần tiên hội)… để rồi đi đến lời kết: “Tôi đã nói đến cảm tưởng của tôi trong lúc đọc thơ Hàn Mạc Tử.

Không có bao giờ tôi thấy cái việc phê bình thơ tàn ác như lúc này. Tôi nghĩ đến người đã sống trong một túp lều tranh phải lấy bì thư và giấy nhựt trình che mái nhà cho đỡ dột. Mỗi bữa cơm đưa đến người không sao nuốt được vì ăn khổ quá.

Cảnh cơ hàn ấy và chứng bệnh kinh khủng đã bắt người chịu bao nhiêu phũ phàng, bao nhiêu ruồng rẫy. Sau cùng người bị vứt hẳn ra ngoài cuộc đời, bị giữ riêng một nơi, xa hết thảy mọi người thân thích.

Tôi nghĩ đến bao nhiêu năm người bó tay nhìn cả thể phách lẫn linh hồn cùng tan rã... Một người đau khổ nhường ấy, lúc sống ta hững hờ bỏ quên, bây giờ mất rồi ta xúm lại kẻ chê người khen. Chê hay khen tôi đều thấy có gì bất nhẫn”...

Một năm sau, trong mục từ Hàn Mạc Tử (Nguyễn Trọng Trí) ở sách Nhà văn hiện đại, Quyển ba (NXB Tân dân, H., 1943), nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thực hiện “nghiên cứu sự nghiên cứu” và trân trọng tiếp nhận: “Từ ngày Hàn Mạc Tử từ trần đến nay, mới trong khoảng hai năm trời, mà người ta đã nói rất nhiều và viết rất nhiều về Hàn Mạc Tử.

Chứng bệnh của thi sĩ, cuộc đời đầy đau thương của thi sĩ, lời thơ thành thực của ông, khi nghẹn ngào, khi hoạt bát, nhưng bao giờ cũng chứa chan tình tứ hay một tin tưởng cao xa, đã làm cho nhiều người chú ý đến đời ông và thơ ông”, đồng thời ghi nhận vị thế người đặt nền móng dòng thơ Công giáo hiện đại: “Lời thơ trong sáng, êm như ru; còn ý thơ nhẹ nhàng, man mác, tỏa ra như mây khói. Mà cảm động, huyền diệu biết bao.

Tình tứ đến thế là cùng, cảm động đến thế là cùng. Một người mang bệnh rất đau đớn mà có một tâm thần thư thái, bình tĩnh như thế, thật là lạ. Sự tín ngưỡng đã giúp sức cho Hàn Mạc Tử rất nhiều. Có lẽ ông là người Việt Nam ca ngợi thánh nữ đồng trinh Marie và chúa Jésus bằng thơ trước nhất.

Ông ca tụng đạo Gia Tô một giọng rất chân thành, chẳng khác nào một thi sĩ Âu Tây. Lần này cũng là lần đầu, thi ca Việt Nam thấy được một nguồn hứng mới… Thơ tôn giáo đã ra đời với Hàn Mạc Tử. Tôi dám chắc rồi đây còn nhiều thi sĩ Việt Nam sẽ tìm nguồn hứng trong Đạo giáo và đưa thi ca vào con đường triết học, con đường rất mới, rất xa xăm, mà đến nay chưa mấy nhà thơ dám bước tới…

Hàn Mạc Tử có những thi hứng rất dồi dào, nhưng thơ ông phần nhiều khúc mắc, nhạc điệu trong thơ ông hình như không phải là phần quan hệ, lời thơ ông nhiều khi rất thô; bệnh ông lại làm cho ông có những ý tưởng khác thường, nên nhiều bài thơ của ông chỉ là những bằng chứng rất lạ cho những người muốn khảo sát một tâm trạng, một linh hồn đau khổ. Về sự thành thật, có lẽ Hàn Mạc Tử hơn hết cả các nhà thơ hiện đại.

Cũng vì ông rất thành thật nên thơ ông theo sát hẳn tính tình cùng tư tưởng của ông; bên những bài tầm thường, người ta thấy dưới ngòi bút ông những tuyệt tác”…

Tiếp nối sau Tản Đà (1889 - 1939), chắc chắn Hàn Mặc Tử là người được giới phê bình đương thời luận bàn nhiều nhất và cũng được xem là hiện tượng phức tạp nhất. Các tác phẩm thơ Hàn Mặc Tử là hiện tượng phức hợp, đa chiều, một “thế giới kỳ dị” (Hoài Thanh), “siêu việt” (Quỳnh Dao, Lê Tràng Kiều) và người đương thời tiếp nhận, luận bàn, đánh giá thơ Hàn Mặc Tử cũng chia thành nhiều luồng dư luận khác biệt nhau.

Trong tầm nhìn của người đương thời, Hàn Mặc Tử là “thiên tài” hay “bình thường”, hay chỉ là “tầm thường”, hay có thể là sự hòa trộn của cả ba dòng tầm mức tư chất ấy? Có người khen đến hết lời, có người khen chê chừng mực hơn và cũng có sự chê đến tận độ.

Tựu trung có thể xác định dòng chủ lưu các ý kiến của người đương thời - người trong cuộc là ngợi ca, đánh giá cao năng lực cách tân và những sáng tạo mới mẻ của Hàn Mặc Tử.

Ngay cả với những người chưa thật hiểu Hàn Mặc Tử, họ vẫn chấp nhận, ghi nhận và trân trọng những đóng góp của ông với phong trào Thơ mới 1932 - 1945. Sau này, thơ Hàn Mặc Tử được nhiều nhạc sĩ tài danh phổ nhạc: Phạm Duy, Võ Tá Hân, Nguyễn Thanh Cảnh, Hoàng Thanh Tâm, Trương Thìn, Danh Zoran, Gioan Kim…

Phong trào Đông Du là một phong trào cách mạng ở Việt Nam đầu thế kỷ 20. Phong trào có mục đích kêu gọi thanh niên Việt Nam ra nước ngoài (Nhật Bản) học tập, chuẩn bị lực lượng chờ thời cơ cho việc giành lại độc lập nước nhà. Lực lượng nòng cốt cổ động và thực hiện phong trào là Duy Tân hội và Phan Bội Châu.

Đầu thế kỷ 20, Pháp đã hầu như hoàn thành quá trình bình định Việt Nam, dẹp yên các cuộc nổi dậy đòi độc lập trong nước. Cuộc khởi nghĩa Yên Thế của Đề Thám chỉ còn hoạt động ở diện hẹp (bị dập tắt vào năm 1913).

Năm 1903, Phan Bội Châu, một sĩ phu yêu nước người Nghệ An, bắt đầu đi vào Nam ra Bắc để liên hệ và để thành lập một tổ chức cách mạng.

Đầu năm 1904, sau khi từ Nam Kỳ về, ngày 8 tháng 4 năm Giáp Thìn (1904), Phan Bội Châu cùng Kỳ Ngoại hầu Cường Để (cháu 5 đời của Hoàng tử Cảnh) và hơn 20 đồng chí khác họp tại nhà riêng của Nguyễn Hàm (còn có tên là Nguyễn Thành, Nguyễn Tiểu La) tại Nam Thịnh sơn trang (Thăng Bình, Quảng Nam) lập ra một tổ chức bí mật có tên là Duy Tân hội.

Kỳ Ngoại hầu Cường Để được mời làm Hội chủ để thu phục nhân tâm tập hợp sĩ phu yêu nước, tranh thủ sự đồng tình và giúp đỡ của nhiều người trong nước. Còn Phan Bội Châu, Nguyễn Hàm, Trình Hiền, Lê Võ, Đặng Tử Kính, Đặng Thái Thân... đều là những hội viên trọng yếu, đảm nhận mọi hoạt động của hội.

Sau khi bàn bạc, hội nghị thành lập hội đã đề ra ba nhiệm trước mắt, đó là: *Phát triển thế lực hội về người cũng như về tài chính.

Hai khoản trên giao cho toàn thể hội viên đảm đương, còn khoản thứ ba thì ủy thác cho Nguyễn Thành và Phan Bội Châu bàn kín rồi thực hiện, các hội viên khác không được biết.

Và theo Nguyễn Hàm, thì nước Tàu hiện nay quốc thể đã suy hèn, cứu mình không xong thì cứu được ai. Duy nước Nhật Bản là một nước tân tiến ở trong nòi giống da vàng mới đánh được Nga, dã tâm đang hăng lắm. Tới đó, đem hết lợi hại tỏ với nó, tất nó ứng viện cho ta. Nếu nó không xuất binh nữa mà (ta tới) mướn tư lương mua khí giới, tất có thể dễ lắm...[1] Sau đó, việc sang Nhật Bản cầu viện đã được đông đảo hội viên tán thành.

Ngày 20 tháng Giêng năm Ất Tỵ (23/2/1905), Phan Bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ (một thành viên cũ của phong trào Cần Vương, làm người dẫn đường) xuống tàu thủy tại Hải Phòng, theo đường biển bí mật sang Quảng Đông, Hồng Kông, Thượng Hải rồi đi tới Yokohama, Nhật Bản.

Đến nơi Phan Bội Châu gửi thư xin gặp Lương Khải Siêu, một nhà cách mạng người Trung Quốc. Trong cuộc bút đàm, Lương Khải Siêu khuyên Phan Bội Châu không tìm cách cầu ngoại viện (nhất là không nên đem quân đội Nhật vào nước) để lấy lại độc lập; mà nên chú trọng việc giáo dục và thức tỉnh nhân dân trong nước trước, khi có thời cơ tốt thì ai nấy đều đã sẵn sàng để làm cuộc nổi dậy...

Sau đó, Lương Khải Siêu còn giới thiệu Phan Bội Châu với hai nhân vật quan trọng của Đảng Tiến Bộ đang cầm quyền ở Nhật Bản, là Bá tước Okuma Shigenobu và Chính khách Inukai Tsuyoshi để xin chính phủ Nhật giúp đỡ Việt Nam đánh đuổi Pháp. Nhưng hai người này cho rằng thời điểm đó chưa thích hợp để Nhật có thể giúp đỡ về quân sự, chỉ khuyên Phan Bội Châu đưa Cường Để sang Nhật (?), viết sách báo để tranh thủ sự đồng tình của dư luận thế giới, đồng thời cổ động thanh niên sang Nhật học tập để chờ đợi thời cơ[2].

Sau khi bị Nhật Bản từ chối giúp đỡ binh lực cho hội, Phan Bội Châu đã chuyển hướng từ "cầu viện" sang "cầu học".

Tháng 6 năm Ất Tỵ (1906), Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính mang một số sách "Việt Nam vong quốc sử" [3] bí mật về nước.

Phan Bội Châu cùng các thành viên nòng cốt trong hội Duy Tân, sau khi bàn bạc đã đề xướng việc lập các hội nông, công, thương, để vừa tập hợp đoàn kết lực lượng, vừa lấy đó làm cơ sở kêu gọi thanh niên xuất dương và là cơ quan tài chính giúp đỡ phong trào Đông Du.

Song song với các hoạt động trên, các thành viên của phong trào còn sáng tác nhiều thơ ca yêu nước như: "Hải ngoại huyết thư", "Việt Nam Quốc sử khảo", "Tân Việt Nam", "Sùng bái giai nhân" (Phan Bội Châu), "Viễn hải quy hồng" (Nguyễn Thượng Hiền), "Kính cáo toàn quốc" (Cường Để), v.v...gửi về nước tuyên truyền cổ động nhân dân hưởng ứng phong trào.

Vì vậy, sau khi phát động, phong trào Đông Du đã được đông đảo người dân ở cả ba kỳ tham gia và ủng hộ, nhất là ở Nam Kỳ.

Ở Nam Kỳ, phong trào Đông Du đã nhận được sự giúp đỡ rất tích cực của tri phủ Trần Chánh Chiếu. Ông này đã lập ra khách sạn Nam Trung để làm nơi gặp gỡ của nhưng người yêu nước, lập Minh Tân công nghệ xã, để vừa chấn hưng công-thương-nghiệp, vừa để có tiền ủng hộ phong trào Đông Du. Ngoài ra, với vai trò là chủ bút tờ Nông cổ mín đàm và Lục tỉnh tân văn, ông còn cho đăng báo những bài có tư tưởng chống Pháp. Nhiều nhân sĩ khác ở đây cũng tích cực tham gia và hết lòng lo cho sự nghiệp chung như Đặng Thúc Liêng, Nguyễn Thần Hiến, Nguyễn An Khương, Bùi Chí Nhuận, Đặng Minh Chương,...[4].

Tháng 10 năm 1905, Phan Bội Châu trở lại Nhật Bản cùng với 3 thanh niên (Nguyễn Thức Canh, Nguyễn Điền, Lê Khiết), sau đó lại có thêm 5 người nữa (trong đó có hai anh em Lương Ngọc Quyến, Lương Nhị Khanh và Nguyễn Văn Điến).

Năm 1906, Cường Để qua Nhật, được bố trí vào học Trường Quân sự Tokyo (Đông Kinh Chấn Võ Học Hiệu) cùng với Lương Ngọc Quyến. Kể từ đó cho đến năm 1908, số học sinh sang Nhật du học lên tới khoảng 200 người, hầu hết đều vào học tại trường Đông Á Đồng Văn thư viện - một trường của Nhật tại tô giới của Nhật ở Thượng Hải (Trung Quốc), sinh hoạt chung trong một tổ chức có quy củ gọi là Cống hiến hội...

Tại trường Chấn Võ và Đông Á đồng Văn thư viện, lưu học sinh Việt Nam được phiên chế vào các ban ngành chuyên môn. Buổi sáng học văn hóa, buổi chiều học các tri thức quân sự và luyện tập ở thao trường.

Để tăng cường quản lý học sinh, giữa năm 1907, Phan Bội Châu tổ chức Việt Nam Cống hiến hội (gọi tắt là Cống hiến hội), cử Cường Để làm Hội trưởng và ông (Phan Bội Châu) làm Tổng lý kiêm Giám đốc trực tiếp chỉ đạo tổ chức này.

Hội có 4 bộ lớn, mỗi bộ có 3 đại biểu của Bắc-Trung-Nam, đó là:

Ngoài ra, còn có cục Kiểm tra để giám sát nhân viên các bộ trên trong khi thừa hành nghiệp vụ; gồm các ủy viên Lương Nhập Nham, Trần Hữu Công và Nguyễn Diễn.

Lúc bấy giờ, các cuộc vận động duy tân ở trong nước của các tổ chức Duy Tân hội, phong trào Duy Tân (phát động năm 1906) và Đông Kinh nghĩa thục (thành lập tháng 3 năm 1907) đã tạo nên một không khí cách mạng về dân trí rất sôi nổi.

Phong trào Đông Du cũng đã và đang lan rộng khắp Bắc, Trung, Nam; và việc học tập của lưu học sinh ở Nhật cũng đã ổn định và đang phát triển thuận lợi.

Tháng 3 năm 1908, phong trào "cự sưu khất thuế" (tức phong trào chống sưu thuế Trung Kỳ) nổi lên rầm rộ ở Quảng Nam, rồi nhanh chóng lan ra các tỉnh khác. Bị thực dân Pháp đưa quân đàn áp, nhiều hội viên trong phong trào Duy Tân và Duy Tân hội bị bắt, trong số đó có Nguyễn Hàm, một yếu nhân của hội[5].

Đang khi ấy ở Nam Kỳ, Trần Chánh Chiếu (một trong số người tích cực ủng hộ Phong trào Đông Du ở Nam Kỳ) lại cho đăng những bài có tư tưởng chống Pháp. Vì thiếu chứng cớ, chính quyền thực dân không thể kết án ông, nhưng kể từ đó nhiều người cùng hoạt động với ông, họ bí mật khủng bố.

Thêm một cái cớ nữa để thực dân ra sức đàn áp, đó là vào tháng 3 năm 1908, các phụ huynh của du học sinh ở Nam Kỳ lại gửi thư công khai theo đường bưu điện cho Phan Bội Châu nhắn là cử người về nhận tiền quyên góp. Hay tin, thực dân Pháp bèn bố trí người và bắt được Hoàng Quang Thành và Đặng Bỉnh Thành cùng với mọi giấy tờ, khi tàu vừa cặp bến Sài Gòn. Lập tức, các phụ huynh bị buộc phải gọi các con em đang du học tại Nhật về, các hội buôn có díu líu đến phong trào bị khám xét và những người có liên quan đều bị bắt bớ...

Tháng 6 năm đó, lại xảy ra vụ Hà thành đầu độc khiến chính quyền thực dân càng ra sức đàn áp các phong trào và tổ chức cách mạng Việt Nam.

Đặc biệt, để làm tan rã phong trào Đông Du, Pháp còn ký với Nhật hiệp ước vào tháng 9 năm 1908. Theo đó, Pháp cho Nhật vào Việt Nam mua bán; đổi lại, Nhật sẽ không cho các nhà cách mạng và lưu học sinh Việt Nam ở Nhật nữa.

Sau khi cử cảnh sát đến trường Đông Á đồng văn thư viện để giải tán tất cả các học sinh người Việt, tháng 3 năm 1909, Cường Để và Phan Bội Châu cũng bị trục xuất. Đến đây, phong trào Đông Du mà Phan Bội Châu và Duy Tân hội đã dày công xây dựng hoàn toàn tan rã, kết thúc một hoạt động quan trọng của hội.

Giải vô địch Cầu lông tỉnh Vĩnh Long năm 2024 thu hút sự tham gia của đông đảo vận động viên nhất từ trước đến nay, với gần 200 tay vợt đến từ 19 đơn vị, gồm: Công an tỉnh Vĩnh Long, thị xã Bình Minh, các huyện: Vũng Liêm, Bình Tân, Tam Bình, Ngân hàng HDBank, Điện lực Vĩnh Long, Trung tâm Hoạt động thanh thiếu niên tỉnh, Trường Đại học Xây dựng Miền Tây, các câu lạc bộ: Thanh Sport, Kim Phong Tâm, Thanh Bảo, Thuận Minh Tâm, Legend Badminton, Tâm Nguyễn, Vui Khỏe, Hồng Gấm, Tài Phú, Tân Hội.

Theo Điều lệ giải, Ban Tổ chức đã chia các vận động viên thành 3 nhóm tuổi, tranh tài ở 11 nội dung thi đấu với độ tuổi nhỏ nhất là 16 và lớn nhất là 40. Cụ thể, nhóm 1 (từ 16-30 tuổi) thi đấu các nội dung đơn nam, đơn nữ, đôi nam, đôi nữ, đôi nam - nữ; nhóm 2 (từ 31-40 tuổi) và nhóm 3 (từ 41 tuổi trở lên) thi đấu các nội dung đôi nam, đôi nữ, đôi nam - nữ. Dù chỉ diễn ra ngắn ngủi trong 2 ngày (từ 26-27/10) nhưng giải đấu đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp và góp phần thúc đẩy sự phát triển của phong trào cầu lông trên địa bàn tỉnh.

Cống hiến cho khán giả những màn tranh tài sôi nổi, các vận động viên đã nỗ lực thi đấu hết mình để mang đến những trận đấu có tính cạnh tranh hấp dẫn, nhiều pha cầu đẹp và chất lượng chuyên môn cao. Qua đó, giúp các tay vợt nâng cao trình độ và duy trì cảm hứng để tiếp tục tham gia tập luyện, thi đấu môn thể thao này.

Xác định giải đấu không chỉ là sân chơi bổ ích mà còn là dịp để thi đấu cọ xát, học hỏi kinh nghiệm nên hầu hết các câu lạc bộ đều có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Bên cạnh đó, việc Ban Tổ chức sắp xếp Lịch thi đấu phù hợp giúp các vận động viên đảm bảo đủ thể lực để thể hiện những phẩm chất tốt nhất của mình. Tất cả những yếu tố này đã góp phần nâng tầm chất lượng chuyên môn của giải.

Anh Diệp Xuân Tài - Chủ nhiệm câu lạc bộ cầu lông Thanh Bảo (xã Phước Hậu, huyện Long Hồ) - cho biết: “Giải vô địch Cầu lông tỉnh năm nay có chất lượng chuyên môn cao với đa dạng các nội dung thi đấu dành cho nhiều nhóm tuổi. Đặc biệt là trình độ các vận động viên không quá chênh lệch và công tác tổ chức chuyên nghiệp đã tạo nên sức hấp dẫn, sự thành công của giải”.

Kết thúc giải, Ban Tổ chức đã trao huy chương kèm vợt, áo thi đấu và tiền mặt cho các vận động viên đạt thứ hạng nhất, nhì, ba và khuyến khích. Trong 11 nội dung tranh tài, câu lạc bộ Kim Phong Tâm là đơn vị thi đấu thành công nhất khi giành đến 4 huy chương vàng ở các nội dung đơn nữ, đôi nam, đôi nữ, đôi nam - nữ của nhóm 1. Đơn vị huyện Tam Bình đoạt 2 huy chương vàng các nội dung đôi nam, đôi nữ nhóm II. Câu lạc bộ Tâm Nguyễn giành 2 huy chương vàng nội dung đôi nam, đôi nam - nữ nhóm 3. Ba huy chương vàng còn lại chia đều cho các câu lạc bộ Thanh Bảo (nội dung đơn nam nhóm 1), Thanh Sport (nội dung đôi nam - nữ nhóm 2) và đơn vị thị xã Bình Minh (nội dung đôi nữ nhóm 3).

Cầu lông là môn thể thao dễ tiếp cận nên thu hút khá đông người chơi ở mọi lứa tuổi trên địa bàn tỉnh. Từ sự phát triển phong trào ở địa phương cũng như các câu lạc bộ, nhiều giải đấu được tổ chức đã tạo sân chơi bổ ích cho các tay vợt giao lưu, trau dồi kinh nghiệm và đánh giá lại quá trình tập luyện của bản thân. Giải vô địch Cầu lông tỉnh Vĩnh Long nằm trong hệ thống thi đấu các giải thể thao truyền thống của tỉnh nhằm động viên và khích lệ phong trào tập luyện, thi đấu môn Cầu lông của thanh thiếu niên, lực lượng vũ trang, sinh viên và công chức, viên chức các ngành trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Đồng thời, qua thi đấu, tiếp tục hưởng ứng có hiệu quả Cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Sự thành công của giải đấu sẽ là động lực cho phong trào cầu lông trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong thời gian tới.